Tôn Ngộ Không (phồn thể:
孫悟空; giản thể: 孙悟空; bính âm: Sūn Wùkōng;
Wade-Giles: Sun Wu-k'ung), còn gọi là Tề Thiên Đại Thánh (齊天大聖) hay Tề Thiên (齊天), là nhân vật chính trong tiểu thuyết
Tây du ký, nhân vật giả tưởng có thể được xem là nổi tiếng nhất trong văn học
Trung Hoa. Tôn Ngộ Không là một pháp sư, nhà sư, thánh nhân, chiến binh và là một
vị phật, có hình thể là một con khỉ, nhân vật được phỏng theo truyện dân gian từ
thời nhà Đường. Tây Du Ký thuật lại cuộc phiêu lưu của Tôn Ngộ Không từ lúc mới
sinh ra, đặc biệt là chuyện Tôn Ngộ Không theo làm đệ tử của Tam Tạng để thỉnh
kinh tại Tây Thiên (Ấn Độ)
Để hiểu sâu rộng hơn mời các bạn cùng tìm hiểu truyện Tây du ký và các nhân vật được Ngài Ngô Thừa Ân, Vị Thiền sư gia, Đạo diễn, minh họa đầy hàm ý, ẩn ý về lý nhân quả, lý vô thường, chuyện lành, dữ trong tam giới, một đời người mê, tỉnh, không ngộ , ngộ không chỉ ở nơi tâm, tánh nhận ra...
Để hiểu sâu rộng hơn mời các bạn cùng tìm hiểu truyện Tây du ký và các nhân vật được Ngài Ngô Thừa Ân, Vị Thiền sư gia, Đạo diễn, minh họa đầy hàm ý, ẩn ý về lý nhân quả, lý vô thường, chuyện lành, dữ trong tam giới, một đời người mê, tỉnh, không ngộ , ngộ không chỉ ở nơi tâm, tánh nhận ra...
Ngài Ngô Thừa Ân, là một
vị Thiền gia đạt được lý Thiền tông, nên mới minh họa Ngài Trần Huyền Trang đi
thỉnh kinh ở Tây Thiên Trúc có hàm ý như sau:
Sự thật, Ngài Trần Huyền
Trang đi học đại học Phật giáo tại trường đại học Phật giáo ở nước Ấn Độ. Ban
Giảng sư ở trường đại học Phật giáo này thấy Ngài hiểu sâu về Thiền học, nên nhận
Ngài làm Giảng sư ở đó 11 năm; chứ không phải như cốt truyện trong truyện “Tây
Du Ký” thường chiếu trong truyền hình.
Ý nghĩa sâu xa của truyện
Tây Du Ký mà Ngài Ngô Thừa Ân muốn nói môn Thiền tông học này, chúng ta phải hiểu
căn bản trong phim Tây Du Ký như sau:
1- Trần Huyền Trang:
Đây là tên trong phim, chứ Ngài tên thật là Trần Huyền Tráng. Pháp danh trong đạo
Phật là Tam tạng, tức ba kho chứa, được gọi là Tiểu thừa, Đại thừa và Tối Thượng
thừa, hay gọi là Phật thừa. Cũng có ý nghĩa: Phật, Pháp, Tăng bên ngoài hay bên
trong của một con người.
Tổng thể một con người
có đầy đủ ba kho báu ấy.
2- Hầu vương: (Vua khỉ,
tức cái trí lăng xăng của chúng ta ví như con khỉ, thích chạy nhảy, nhưng trong
cái chạy nhảy đó, có cái Phật tánh là thấy, nghe, biết, pháp rất sáng suốt.
3- Trư Bát Giới: (Tám
giới cấm trong Nhà Phật. Người tu chân chánh theo đạo Phật, phải triệt để giữ
gìn tám giới như: 1- Tham, 2- Sân, 3- Si, 4- Mạng, 5- Nghi, 6- Ác, 7- Kiến thường,
8- Kiến đoạn). Tượng trưng cho: Ham ăn, mê ngủ, lười biếng, thích dục lạc, hay
nói những việc không phải là sự thật, cũng gọi là nói bừa, v.v…
4- Ngộ Tịnh: (Dụng công
tu để tu cho đạt dược tánh thanh tịnh của chính mình): Tượng trưng cho: Lao động,
siêng năng, cần cù, chân thật, niêm mật, tu hành, v.v…
Trong phim này, Tam Tạng
coi là vai chánh, chứ sự thật, cốt truyện này là nói đến cuộc đời của một hành
giả tu theo Thiền tông đạo Phật, từ lúc sanh ra, tu hành đến quả vị Phật, vai
chánh chính là Hầu vương.
Ý nghĩa sâu xa của cuộc
đời Hầu vương như sau:
Thứ nhất:
Hình thành một con người:
– Hầu vương, ban đầu
sanh ra bởi:
Ngũ Hành:
– Kim – Mộc – Thủy – Hỏa
– Thổ.
Hay:
– Đất – Nước – Gió – Lửa
– Thức.
Thứ hai:
Hầu vương đi tìm học kiến
thức và tu đạt được lý không (Ngộ Không).
Tầm sư học đạo: Ngài
tìm học với ông Tu Bồ Đề; ông Tu Bồ Đề là đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ý
muốn nói, từ cái căn bản chánh là Pháp thân thanh tịnh (tức Phật tánh). Hầu
vương tìm học hỏi ở Phật tánh thanh tịnh sáng suốt của chính mình, Hầu vương đã
học được một phần nhỏ của những gì trong Phật tánh của chính mình, mà đã dụng
công được, như: Thăng thiên, độn thổ, cỡi mây, nương gió, v.v… Nên Hầu vương được
Ngài Tu Bồ Đề đặt cho cái tên là “Tôn Ngộ Không”, (suy tôn người tu hành, đạt
được lý không).
Theo Nhà Phật, đây là
người dụng công tu, được xếp vào hàng Tiểu thừa, cũng gọi là tu theo Nhị thừa
(tức còn chấp Có và chấp Không).
Thứ ba: Kiến chấp cao tột
và trùm khắp:
Hầu vương thấy mình có
chút đỉnh thần thông, coi mình (Ngã) là hơn hết, nên xem trong vũ trụ này không
có bất cứ thứ gì, nên Tôn Ngộ Không phá đi luật tự nhiên của nhân quả, bằng
cách:
– Lên Trời đập phá
Thiên đường!
– Xuống Địa ngục xóa sổ
sanh tử!
Vì Tôn Ngộ Không mới tu
hành đạt được “Lý Không”, chưa đạt được tột cùng của đạo, nên không thấu triệt
được sự vận hành của Tam giới. Vì vậy, sau này mới lãnh hậu quả gớm ghê, tức bị
nhân quả trong qui luật vật lý này!
Thứ tư: Kiến chấp có hoặc
không dù còn thật nhỏ nhất:
Tôn Ngộ Không đã phá được
Thiên đường, xóa được Địa ngục. Ý muốn nói, tâm người tu chấp không có Thiên đường,
cũng không có Địa ngục, không phải, không quấy, không hơn, không thua, nghĩa là
không có hai bên, v.v… Nhưng vẫn còn thấy mình có “Thấy và có Biết”.
Các cái hai bên ấy, tức
còn một chút chấp Có và chấp Không, dù là nhỏ nhất. Vì còn thấy có một chút chấp
đó, nên Tôn Ngộ Không nhảy vào lòng bàn tay của Phật Tổ Như Lai, bay xa tận
cùng, cho là vượt qua tất cả. Nhưng Tôn Ngộ Không đã lầm. Vì chỗ lầm đó, nên
Tôn Ngộ Không làm dấu ở đầu ngón tay của Phật Tổ, hay nói cho thật rõ, là còn một
chút cái Có đó, nên không thể nào vượt ra ngoài Ngũ Hành của bản thân được.
Vì vậy, Phật Tổ Như Lai
mới úp bàn tay xuống, tượng trưng cho Tôn Ngộ Không bị Ngũ Hành nhốt lại. Tôn
Ngộ Không bị nhốt trong Ngũ Hành, dù có ăn uống như thế nào đi chăng nữa cũng
là những thức ăn coi như cây khô lá chết mà thôi!
Giống như chúng ta sống
trong ngũ hành của chúng ta,
dù chúng ta có ở nhà
cao, cửa rộng, ăn sang, mặc đẹp, phương tiện hơn người, v.v…
Đối với người nhận ra
được lý Thiền tông và sống trong ấy, coi những thứ vật chất ở thế giới là cái
nhà nhốt chúng ta, còn những thức ăn là những thứ nhân quả của vật chất vậy!
Thứ năm: Tôn Ngộ Không
bị nhốt trong Ngũ Hành Sơn 500 năm! Đây là con số của Ngài Ngô Thừa Ân đặt ra, ẩn
ý là Tôn Ngộ Không sống trong ngũ uẩn, tượng trưng cho con số 500. Xét ra rất
hay, để nói lên nếu chúng ta không biết được sự thật thì chúng ta bị ngũ hành
nhốt mãi mãi, dù dùng con số tỷ năm cũng chưa đúng chớ đừng nói chi là số năm!
Không biết, chúng ta
“chui vào” trong tam giới này bao lâu, và bị ngũ uẩn nhốt ta từ thuở nào? Nếu
chúng ta đã biết được ngũ uẩn là không thật, chắc chắn chúng ta sẽ “chui ra” khỏi
ngũ uẩn một cách hết sức dễ dàng.
Hầu hết chúng ta là môn
đồ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà còn không biết. Thử hỏi, ở trên trái đất này
có mấy người biết được ngũ uẩn là không thật! Ngũ uẩn còn không biết thì làm
sao biết được Phật tánh?
Vì không biết được Phật
tánh, nên chúng ta bị người khác lừa mình từ vô lượng kiếp đến nay!
Thứ sáu: Tôn Ngộ Không,
nhận ra Tánh Chân Không:
Suốt một thời gian dài
sống trong Ngũ Hành Sơn. Nhờ sự dẫn dắt của Bồ tát Quán Thế Âm (Bồ tát Quán Thế
Âm là tượng trưng cho tiếng nghe của Nhĩ căn). Tôn Ngộ Không mới nghe được bằng
tánh Nghe tự nhiên thanh tịnh của chính mình. Nhờ vậy, Tôn Ngộ Không mới giác
ngộ, rõ ràng tánh Nghe chân thật của chính mình.
Nhờ giác ngộ được rõ
ràng của tánh Nghe, Tôn Ngộ không mới hiểu được 2 căn bản như sau:
1- Trong tam giới là do
nhân duyên và nhân quả điều hành theo qui luật sinh diệt luân hồi.
2- Trong Bể tánh Thanh
tịnh Phật tánh, là nơi không sanh diệt.
Vì sao không sinh diệt?
– Vì là thanh tịnh.
Tuy là thanh tịnh nhưng
vẫn có sự sống.
Có sự sống làm sao
thanh tịnh được?
– Vì sự sống này là do
Điện Từ Quang duy trì; Điện Từ Quang này là loại điện từ chỉ có rung động tự
nhiên, chứ không có lục hút Âm Dương.
Đến đây, Tôn Ngộ Không
mới nhận ra năm uẩn nhốt mình là không thật, tức Ngũ uẩn giai không, nên Tôn Ngộ
Không mới phá bỏ được Ngũ Hành Sơn, tung bay trong bầu trời tự do. Lúc này Hầu
vương mới chính thức được mang tên Tôn Hành Giả, tức người tu hành chân chánh.
Ở thế gian này, ai thấy
ngũ uẩn mình là không thật, người đó mới chính thức là người chân tu theo Nhà
Phật, còn ai không thấy được vậy, chỉ là người mang lớp áo tu theo Nhà Phật để
kiếm tiền sinh nhai mà thôi!
Vì đã nhận ra tánh Biết
chân thật của chính mình, nên Tôn Ngộ Không biết được tự nhiên trùm khắp. Nhờ vậy,
cái gì là giả, cái gì là thật, Y đều biết được tất cả, dù là vô hình hay là hữu
hình.
Còn người sử dụng trí học
hỏi của thế giới này, dù có học cao tột đến đâu, cũng không thể hiểu và biết được
như cái Biết thanh tịnh của Phật tánh được.
Cái Biết thanh tịnh ấy:
– Người tu hành niêm mật
và hiểu bình thường như sư phụ Trần Huyền Trang, không thể nào biết được. Dù sư
phụ có dụng công ngồi thiền suốt 5, 7, ngày liền! Quên ăn, quên ngủ, vua, quan
kính nể, vang danh khắp trong thiên hạ, cũng không thể biết như cái Biết của Phật
tánh thanh tịnh được!
Cái Biết thanh tịnh ấy:
– Người tu hành lười biếng,
như Trư Bát Giới: Ham ăn, mê ngủ, ham đủ thứ dục lạc ở thế gian này, cũng không
thể biết như cái Biết thanh tịnh của Phật tánh được!
Cái Biết thanh tịnh ấy:
Người tu hành cần cù như
Trương Ngộ Tịnh, siêng năng, chăm chỉ, không bỏ sót thứ gì, dù là một việc nhỏ
nhất, không biết mệt mỏi, cũng không thể biết, như cái Biết thanh tịnh của Phật
tánh được!
Nói tóm lại:
– Ba hạng người tu hành
như nói trên, họ không thể nào biết được cái Biết thanh tịnh của Phật tánh.
Bởi vậy, ở hội của Ngũ
Tổ Hoằng Nhẫn, về phần Tăng, Ni, tu trên 500 vị, còn phật tử cả mấy ngàn người,
họ đến tu với Ngũ Tổ, vì nghe Ngũ Tổ được truyền Y và Bát của Đức Phật dùng hằng
ngày, họ đến với Ngũ Tổ là vì cái “Danh”, chứ không phải đến để tìm Phật tánh
thanh tịnh của chính họ!
Do đó, khi Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn muốn truyền Thiền tông lại cho ai nhận ra Phật tánh thanh tịnh của chính họ,
để Tổ truyền Thiền tông lại.
Thượng tọa Thần Tú là một
vị Giáo thọ sư, dạy Tăng lẫn Ni và phật tử, thế mà Thượng tọa Thần Tú không hiểu
Thiền tông học là gì?
Thượng tọa Thần Tú đến
học đạo với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, cũng vì “Danh”, vì chức làm thầy thiên hạ, chứ
không phải học để giác ngộ!
Vì vậy, khi Ngũ Tổ bảo
toàn thể Tăng và Chúng làm kệ, để xem coi có ai biết được Phật tánh của chính
mình không, nếu ai nhận rõ Phật tánh của chính mình, thì Ngũ Tổ sẽ truyền Thiền
tông cho để làm Tổ sư Thiền tông kế tiếp.
Ở hội Ngũ Tổ, có Thượng
tọa Thần Tú được coi là vị hiểu đạo cao nhất, trên là Ngũ Tổ, dưới là Ngài,
nhưng khi làm kệ để trình bày “Tánh Phật” của chính Ngài, Ngài mù mịt!
Một vị chức cao tột đỉnh
như vậy, mà không biết Phật tánh là gì, thì những người tu hồi đó họ làm sao biết
được?
Những người thời đó họ
đến với Ngũ Tổ cũng vì “Danh” của Ngài thôi!
Còn các người đi tìm học
đạo ngày nay, cũng không khác gì người xưa.
Vì vậy, đạo tràng ngày
nay có rất nhiều người đến học, mà học một thời gian rất dài, mà cũng chưa thấy
có ai giác ngộ cả, thì làm sao giải thoát?
Vì sao vậy?
– Vì chính ông Thầy đứng
ra giảng nói, vị Thầy ấy còn chưa biết được tánh Người chứ đừng nói chi là tánh
Phật.
Xin nói thêm về Thiền
tông học này:
– Khi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
tịch, Thượng tọa Thần Tú được đức vua Võ Tắc Thiên mời về triều đình làm Quốc
sư. Vua Võ Tắc Thiên là người hiểu rất thông Thiền tông học.
Đức vua có hỏi Quốc sư
Thần Tú:
– Khi còn sanh tiền, Đức
Ngũ Tổ có dạy đạo“Nhất thừa”, vậy Quốc sư hãy nói đạo ý nghĩa đạo Nhất thừa cho
Trẫm nghe thử?
Ý đức vua Võ Tắc Thiên
lấy câu truyện trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa về xe trâu trắng mà Đức Phật dạy
như sau:
Nhất thừa là cỗ xe
trâu.
Đổ đi sanh tử, còn đâu
luân hồi
Bạch ngưu hiện rõ ra rồi
Luân hồi sinh tử là
“Thôi” với mình.
Còn Thiền tông, các vị
Tổ sư thiền có dạy:
Thiền tông là “Nhất tự
thiền”
Đưa người thanh tịnh về
miền quê xưa
“Nhất tự” không dụng sớm
trưa
“Buông, Dừng, Thôi, Dứt”
quê xưa thấy liền.
Đạo “Một chữ” Quốc sư
Thần Tú không biết, nên vua Võ Tắt Thiên hỏi thêm câu thứ hai:
– Nay Trẫm đã già, mắc
phải bệnh của người lớn tuổi, trong thiên hạ, nhiều người bảo: Nếu biết uống
trà đạo sẽ trị được bệnh thân và bệnh tâm, vậy Quốc sư có thể chỉ cho Trẫm được
không?
Câu hỏi đạo “Nhất thừa”
Quốc sư Thần Tú không trả lời được, lại bị câu hỏi thứ hai, quốc sư Thần Tú
đành thưa với vua Võ Tắc Thiên:
– Về chỗ sâu mầu này,
thật tình Thần không hiểu, kính xin Bệ hạ cử người về phương Nam hỏi Lục Tổ Huệ
Năng ắt sẽ rõ.
Đức vua, sai ông Tiết
Giản về phương Nam hỏi Đức Lục Tổ. Đức Lục Tổ Huệ Năng không giảng dạy mà chỉ đọc
có 9 chữ để ông Tiết Giản ghi, đem về trình lên vua Võ Tắt Thiên. Chín chữ ấy
như sau:
– Không trà, không tâm,
biết uống là hết bệnh!
Ông Tiết Giản về triều
tâu trình lên vua Võ Tắt Thiên. Đọc xong thư, đức vua biết cách uống trà đạo để
trị bệnh thân và bệnh tâm, liền xuất khẩu thành bài thơ bốn câu:
– Tay bưng lấy một tách
trà
– Trà vừa vô miệng hết
đà bệnh tâm
– Ơn Thầy chỉ dạy rất
thâm
– Nhờ vậy, Trẫm thấy bệnh
thân không còn.
Bốn câu thơ nói trên,
là bốn câu thơ đã nói lên Nhà vua ngộ được lý Thiền tông, chứ không phải tầm
thường. Cũng nhờ chín chữ ấy, vua Võ Tắt Thiên đã nhận ra Phật tánh của chính
mình và sống với Phật tánh ấy. Nhờ vậy, khi đến 80 tuổi, vua ngồi kiết già rồi
thị tịch tự bỏ xác thân mình. Người sống được trong Bể tánh Thanh tịnh Phật
tánh mới có khả năng này.
Xin nhấn mạnh về chín
chữ mà Đức Lục Tổ Huệ Năng dạy vua Võ Tắt Thiên:
“Không trà, không tâm,
biết uống là hết bệnh!”
Đức vua nhận ra chỗ
thâm sâu này, tức khắc nhận ra được Phật tánh Thanh tịnh của chính Ngài. Lúc
này, câu “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, mà trong Bát Nhã Tâm Kinh thường lặp
đi lặp lại, trước kia Nhà vua mờ mịt, nay đã hiện rõ nghĩa chân thật, như dưới
ánh sáng ban ngày, đồng nghĩa Nhà vua nhận ra được Phật tánh chân thật của
chính Ngài rõ ràng thanh tịnh; không phải là cái tâm lăng xăng của vật lý, còn
sự học hỏi của tâm vật lý và xác thân tứ đại của Nhà vua chỉ là của sinh diệt
luân hồi. Hai thứ này, Nhà vua biết cách tách rời ra nên tự bỏ xác thân một
cách rất dễ dàng và hòa nhập vào Niết bàn Thanh tịnh của Mười Phương Chư Phật.
Khi đức vua ngộ được lý
Thiền tông qua chín chữ dạy của Đức Lục Tổ Huệ Năng, đức vua Võ Tắc Thiên có Sắc
Chỉ cám ơn Đức Lục Tổ Huệ Năng, với các lời văn kệ như sau:
– Sở dĩ, suốt đời làm
vua của Trẫm được trên thuận dưới hòa, giải quyết được tất cả công việc nước,
dù có khó đến đâu, cũng được vượt qua. Đó là Trẫm nhờ ân đức lớn: Trong nước của
Trẫm có vị tu hành đạt đạo. Hôm nay, Trẫm mới biết, người đạt được đạo ấy chính
là Thầy. Nhờ lời dạy của Thầy, Trẫm đã nhận ra Bản Lai Diện Mục của chính mình
và sống được với Bản Lai Diện Mục ấy. Để đáp lại công ơn trời biển của Thầy,
nay Trẫm có Sắc Kệ bốn câu, kính dâng lên Thầy. Trước, cám ơn Thầy, sau, là
trình kiến giải của Trẫm đã nhận ra được chỗ thâm sâu mà Chư Phật đã dạy, mong
Thầy chứng minh.
Sắc Kệ rằng:
– Lời dạy của Phật rất
cao sâu
– Tỷ đời triệu kiếp con
tìm cầu
– Hôm nay nghe được lời
Thầy dạy
– Rõ nghĩa Như Lai rất
nhiệm mầu!
Đức Lục Tổ nhận và ấn
chứng cho vua Võ Tắc Thiên đã triệt ngộ được “Bí mật Thiền tông”. Nên bài Sắc Kệ
này được công bố khắp trong nước. Vì vậy, tất cả các chùa trước khi khai kinh tụng
đều lấy bài kệ của vua Võ Tắc Thiên tụng để khai kinh.
Sắc Kệ này có 28 chữ,
ban đầu các chùa tụng đúng nguyên bản gốc. Dần dần về sau này, tụng lệch đi sáu
(6) chữ, nên làm mất đi ý nghĩa chánh của bài kệ khai kinh. Bài kệ của vua Võ Tắc
Thiên là trình kiến giải về đạt “Bí mật Thiền tông” và được “Rơi vào Bể tánh
Thanh tịnh Phật tánh” của chính bà.
Còn bài kệ hiện nay các
chùa đang tụng để khai kinh, là bài kệ cầu nguyện mong đạt được ý sâu mầu lời của
Đức Phật dạy, thật là đáng tiếc!
Vì sao có sự sai lệch
này?
Vì người sau này dịch kệ
thiền mà họ không giác ngộ “Yếu chỉ Thiển tông” là phải sai! Tất cả kệ thiền
hay kinh nói về thiền, ẩn chứa ý sâu mầu trong từng chữ, từng câu, không thể
thêm hay bớt một chữ hay một nét nào được! Nếu đem cái tri thức suy ngẫm của học
thức mà giải về thiền học, thì chắc chắn phải bị sai!
Người ngộ thiền giống
như người trước kia bị mù mà nay được sáng mắt. Còn người dịch kinh hay kệ thiền
mà chưa ngộ thiền, giống như người còn đang mù mắt, nương theo cái suy nghĩ của
học thức của mình mà dịch kinh hay kệ thì giải làm sao đúng được!
Xin nhấn mạnh thêm:
Người muốn dịch kinh
hay kệ thiền, ít nhất người đó phải giác ngộ “Yếu chỉ Thiền tông”; chứ không
giác ngộ Yếu chỉ Thiền tông mà dịch kinh hay kệ thiền, là phải mang lỗi với người
xưa và với người nghiên cứu, tụng hay đọc! Hai lỗi ấy, Đức Phật và các vị Tổ sư
Thiền tông không chấp nhận!
Đó là việc của quá khứ!
Còn hiện tại, ở nước Việt
Nam chúng ta, nếu vị nào quyết chí tu theo đạo Phật để được giác ngộ và tìm đường
giải thoát, thì hãy tìm cho được một vị Thiện tri thức, đã đạt được “Bí mật Thiền
tông”, nhờ vị ấy giúp đở thì người tu mới mong thành công được. Còn không tìm
được vị này, dù chúng ta có đi nghe người chưa biết Thiền tông học là gì, dù
chúng ta có nghe họ giảng 100 năm cũng không khi nào giác ngộ, chứ đừng nói chi
giải thoát.
Xin mách người đạt được
“Bí mật Thiền tông”:
Người đạt được “Bí mật
Thiền tông”, vị này không khi nào đứng trước đông người nói, mà vị này chỉ cần
nhìn người đối diện nói chỉ 1 câu, là vị này biết người đối diện có muốn tu giải
thoát hay không, tự vị này nói cho người đối diện biết.
Thứ bảy: Hầu vương, trở
thành là một hành giả.
Đây mới bắt đầu chính
thức là một vị chân tu. Vì là chân tu nên biết tất cả những hư, ngụy, chánh,
tà, v.v… Vì vậy, trên con đường đi của Hầu vương không sự việc gì qua mắt được
Hầu vương cả, còn người dụng công niêm mật như sư phụ Trần Huyền Trang, chểnh mảng
như Trư Bát Giới hay cần cù như Trương Ngộ Tịnh, cũng không sao biết được sự thật
của một người tu theo đạo giải thoát! Không biết đường đi của đạo giải thoát.
Dù có tu trải qua một ngàn đời đi chăng nữa, cũng phải lầm lủi đi trong sáu nẻo
luân hồi không ngày cùng!
Vì chỗ này mà Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni có dạy: “Dù các ông có ngồi Đạo Tràng dụng công tu thiền 10 tiểu
kiếp, Phật tánh của các ông cũng không thể nào hiển lộ ra được!”
Thứ tám: Thân cận Như
Lai (tức Phật tánh):
Khi Hầu vương tiếp cận
được Đức Phật rồi (chỉ tiếp cận thôi chứ không phải vào được nhà của Như Lai).
Tới đây, không một lời nào để nói, ví là kinh Vô tự. Khi bước vào Nhà Như Lai
thì không thể nói một lời nào cả, mà chỉ thấy vậy, hiểu vậy, biết như vậy thôi,
v.v… Cái hay Thấy và cái hay Biết, lúc nào cũng trong sáng, thanh tịnh và trùm
khắp, diệu dụng, đầy đủ, v.v…
Đến đây trong Huyền ký
Đức Phật có dạy như sau:
– Khi các ông đã vào được
Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh rồi, thì những việc trong Phật tánh để Phật làm mà
thôi, vì chỗ đó Đức Phật có dạy 4 câu:
Trí thế ông dẹp được rồi
Những thứ trong Tánh,
Phật làm mà thôi
Vào đây bị mất cái Tôi
Pháp Thân Thanh tịnh hiện
rồi với “Ta”.
Khi vị nào có đại phúc
được “Rơi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh” thì không thể nào sử dụng ngôn từ của
thế giới này được. Vì vậy, chúng ta mới biết tại sao khi Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni khi thành đạo, Ngài không muốn nói, vì Ngài thấy mọi sự vật trên đời này đều
khác hẳn với mọi sự Thấy và Biết của Ngài trước khi chưa thành đạo.
Ngài thấy, từ vô hình
hay hữu hình đều vận hành rất trật tự, công bằng, rất nhịp nhàng, không sai
sót, đầy đủ khắp trong vũ trụ này! Không thể dùng lời nói của con người mà diễn
tả được. Có nghĩa, mọi sự Thấy và Biết của con người sống trên thế giới này đều
bị đảo lộn tất cả! Nên Ngài không nói được! Vì vậy, đến chỗ này, được coi là vô
ngôn, tức kinh vô tự. Đến đây, chúng ta mới giải mã những bí ẩn của các Thiền
sư.
Có ai hỏi các Ngài:
– Thế nào là Phật tánh
hay chân tâm của con?
Các Ngài không trả lời,
mà đánh một gậy hay hét một tiếng lớn, hoặc đạp cho một đạp là đã trả lời cho
người hỏi rồi. Nếu ai lanh lợi sẽ nhận ra câu trả lời, còn khởi vọng tìm ý
nghĩa lời nói thì mờ mịt!
Chính chỗ này, hiện giờ
các vị Giảng sư dùng trí óc học cao của chính mình để giảng, thì làm sao giảng
đúng được. Vì chỗ bí ẩn này, chỉ một chữ Phật họ còn không biết, thì làm sao họ
biết toàn bộ những gì trong “Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh” mà họ giảng?
Thứ chín: Vì muốn cho mọi
người hiểu, nên Hầu vương phải thỉnh kinh có chữ để trợ giúp cho mọi người thấu
hiểu. Nương theo 12 bộ kinh Đại thừa. Nương theo những pháp quán, tưởng, hay
tìm kiếm để lần lần trở về nguồn cội của chính mình mà trong Nhà Phật gọi là trở
về với “Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh” mà không phải vượt qua các thứ lớp tu
hành.
Thứ mười: Trở về cố
hương.
Mục thứ mười này, đây
là mục kết thúc một đời trầm luân của một hành giả tu theo pháp môn Thiền tông
đạo Phật. Chỉ có tu theo pháp môn Thiền tông mới trở về cố hương được. Chứ tu
theo các pháp môn khác, dù phải trải qua không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp,
từ sai lầm này, đến sai lầm nọ. Từng ở các cõi Trời hưởng phúc. Từng ở các tầng
Địa ngục để chịu những hình phạt gớm ghê. Từng làm vua ở nhân gian, từng làm
chúa ở các cõi Trời, ăn trên ngồi trước. Hay từng làm kẻ bần cùng hèn hạ, từng
làm Ngạ qủy, Súc sanh, làm Thần làm Thánh, để mê hoặc người khác… Sau cùng,
cũng phải tu theo pháp môn Thiền tông, mới trở về cố hương được, đến đây mới kết
thúc một chúng sanh bị đi trong lục đạo luân hồi!
Nói tóm lại:
Truyện Tây Du Ký, là diễn
tả một con người từ khi mới sanh ra, làm tất cả những chuyện lành, dữ ở trong
tam giới này, chứ không phải là một cốt truyện có phép mầu mà từ người trẻ, đến
người lớn đều hiểu lầm. Cái lầm lẫn rất lâu, không ai giải thích ý sâu mầu chân
thật cái ý của Ngài Ngô Thừa Ân muốn chỉ.
Nay chúng tôi xin giải
mã, phơi bày ẩn ý cốt truyện “Tây Du Ký” này, mong được nhiều người hiểu và hiểu
thật rõ ràng, để đáp lại lời hay ý đẹp mà Ngài Ngô Thừa Ân đã muốn chỉ cho
chúng ta.
Kính mong những ai có
duyên đọc được quyển sách nhỏ này, nhận ra ẩn ý của Ngài Ngô Thừa Ân và đạt được
những sự chỉ giáo ấy, để chúng ta trở về cố hương của chính mình, ở trên đời
này không gì quý bằng vậy!
Trích quyển “Hành đúng
lời Phật dạy chắc chắn Giải thoát”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét