(Sưu tầm)
Tôi và vợ tôi không phải là người cùng một tỉnh, khi tôi
chán nản buồn bã đã quen được cô ấy, sau này trải qua bao nhiêu trở ngại, chúng
tôi mới kết thành vợ chồng, thời gian đó chúng tôi đã vượt biết bao khó khăn.
Trong tâm tôi luôn cảm thấy mình nợ cô ấy rất nhiều, cô ấy có tính hay dựa dẫm
vào tôi, nếu một ngày không nhìn thấy tôi thì tâm thần bất an, đứng ngồi không
yên.
Tôi khai mở một số ký ức ở những đời trước, vợ tôi cũng vì
thế mà thường nói với tôi: “Kiếp trước em và anh rốt cuộc là có quan hệ nhân
duyên thế nào? Anh không thể xem một chút sao?” Tôi nói với cô ấy rằng điều này
không thể cưỡng cầu được.
Vào một buổi tối, tôi lại một lần nữa vượt qua không gian và
thời gian của luân hồi, trở về hơn một nghìn năm trước, nhìn thấy được những ân
oán giữa tôi và vợ.
Trong kiếp đó, sau nhiều năm tôi xuống núi vân du, khi trở
về chùa Vĩnh Hoa thì sư phụ đã viên tịch rồi, bởi vậy chúng tăng trong chùa
chọn tôi lên làm trụ trì. Không lâu sau tôi bắt đầu lập đàn giảng kinh tuyên
dương Phật Pháp, khi đó tôi chưa đến 30 tuổi, những người thường họ hay gọi đùa
tôi là “tiểu phương trượng.” Cùng với ảnh hưởng được mở rộng, hương hỏa trong
chùa càng ngày càng thịnh vượng; khách hành hương, các tín chúng, những người
hỏi đạo đến tôi đều không cự tuyệt. Một hôm, một nhà giàu họ Lý có việc đi qua
chùa, ông dẫn theo người nhà, tiện đường liền lên núi thắp hương kính Phật, khi
uống trà nói chuyện thì biết được cả nhà ông đều tín phụng Phật Pháp, hay làm
việc thiện, vì nghe nói tôi tu luyện trong Phật Pháp đạt được trình độ nhất
định nên ghé vào thăm, thuận tiện cho chúng tăng một ít đồ cúng. Đi cùng còn có
con gái của ông, dáng vẻ khoảng 16~17 tuổi, dung mạo đoan trang, cô nhìn thấy
những câu kệ tôi viết liền cầm lên xem hồi lâu, rồi chợt hỏi chuyện một cách tò
mò, tôi khiêm tốn trả lời từng câu hỏi. Không lâu sau thì họ phải lên đường,
khi từ biệt tôi mới phát hiện ánh mắt của Lý tiểu thư không rời khỏi tôi, ánh
mắt đó từ trước đến giờ tôi chưa từng tiếp xúc qua. Bỗng nhiên tôi thấy chấn
động, tâm tư suy nghĩ bất định, tự nhủ: “Ta tu hành từ nhỏ đến nay, tự nghĩ
định lực bản thân không hề nông cạn, làm sao trước nữ sắc lại thất bại thế này?”
Từ hôm đó, nhiều ngày khi đả tọa không thể nhập định được, những suy nghĩ bất
chính liên tiếp đến; dần dần phải qua thời gian dài mới có thể chế phục được
tâm ma này, từ đó tu luyện trong Phật Pháp không dám có chút buông lơi nữa.
Một năm sau, dưới núi có người vội vã đưa đến một bức thư,
thì ra là thư của Lý viên ngoại, tôi vừa mở ra xem mồ hôi lạnh liền toát ra,
vội vàng niệm Phật hiệu. Trong thư viết con gái Lý viên ngoại từ sau khi ở chùa
trở về, không lâu sau thì ngã bệnh, không cách nào chữa được, tìm không ra
nguyên nhân căn bệnh, tiểu thư không nói, người nhà cũng không có cách nào. Sau
này mới ít nhiều biết được là vì tương tư tôi nên thành bệnh, nghĩ tôi là người
trong Phật môn, chuyện này chẳng phải trò cười hay sao? Nhưng không biết làm
thế nào vì sức khỏe con gái ông ngày càng nguy kịch, chỉ còn cách mời tôi từ bi
xuống núi thăm con gái ông.
Việc cứu người là khẩn cấp, do đó tôi vội vàng thu xếp công
việc và đồ đạc rồi theo người đưa thư xuống núi. Sau nhiều ngày thì đến được Lý
phủ. Lý viên ngoại trong lòng nóng như lửa đốt, nhìn thấy tôi đến bèn vui mừng
ra đón, rồi dẫn tôi vào trong nhà. Dường như đã có người sớm báo cho tiểu thư,
viên ngoại ở bên ngoài gọi tiểu thư: “Con gái, con xem ai đến này.” Tiểu thư từ
từ ngồi dậy khỏi giường, nét mặt ửng hồng, khe khẽ hỏi tôi: “Cao tăng, ngài đã
biết rồi sao?” Lời nói có vẻ mệt mỏi, cơ thể biểu lộ ra vẻ yếu ớt.
Tôi vội vàng thi lễ, ra hiệu cô ấy không nên cử động nhiều,
sau đó tôi giảng giải về Phật Pháp, muốn cô ấy vượt qua chướng ngại tình cảm
nam nữ, nhưng cô ấy tựa như nghe mà không nghe, lúc sau hỏi tôi: “Cao tăng,
kiếp này ngài và tôi không thể đến được với nhau ư?”
Tôi liền lập chưởng nói: “Đúng vậy, tuyệt đối không thể
được!”
Nước mắt cô gái lăn dài trên má, một hồi lâu sau cô ấy chỉ
vào gói đồ trên bàn và nói: “Hôm nay gặp nhau, không biết khi nào mới lại tương
phùng, tôi tặng ngài một bó tơ lụa làm đồ cung dưỡng, mong cao tăng nhận cho.”
Tôi ấp úng nói: “Cái này…” Dáng vẻ của cô ấy làm tôi không nỡ cự tuyệt: “Vậy
bần tăng xin nhận, cảm tạ nữ thí chủ, bần tăng xin cáo từ, xin nữ thí chủ an
tâm nghỉ ngơi dưỡng bệnh, đọc nhiều kinh Phật, sức khỏe sẽ sớm hồi phục.”
Thấy cô ấy lặng im, tôi liền quay người bước ra khỏi phòng. “Cao
tăng xin hãy thong thả,” tiểu thư ở sau lưng tôi gọi.
Tôi quay người lại: “Nữ thí chủ vẫn còn việc gì muốn nói hay
sao?”
Ánh mắt cô gái lộ vẻ kỳ lạ: “Nếu đời này ngài tu không thành
thì sao?”
Tôi đáp lời cô ấy: “Nếu đời này ta không tu thành, đời sau
vẫn tiếp tục làm tăng.”
“Nếu đã như vậy, dải lụa này xin làm tín vật, kiếp sau tôi
lại lên chùa tìm ngài.” Nói xong tiểu thư quay người đi vào trong.
Trở về chùa được hai năm, nghe nói sau khi tôi rời khỏi đó
không lâu, Lý tiểu thư đã qua đời trong sầu não. Việc này đã khuấy động cả một
đời của tôi, quả nhiên trong kiếp đó tôi tu không thành.
Chớp mắt đã đến đời sau, tôi quả nhiên lại chuyển sinh thành
hòa thượng, sau đó ở chùa Vĩnh Hoa tiếp tục làm trụ trì. Thấm thoắt mấy năm
trôi qua, đã lại đến trung thu, ngày thứ hai là ngày hương hội, buổi tối khi
tôi đả tọa nhập định, bỗng nhiên trước mắt hiện lên một khoảng không rõ ràng,
rồi xuất hiện công năng nhìn được tương lai quá khứ; tôi biết được mình là
phương trượng tiền nhiệm chuyển thế và cũng biết được chuyện gì sắp xảy ra, sau
khi xuất định chỉ biết thở dài than rằng: “Định số! Đúng là định số!” Ngày hôm
sau, người đến hành hương rất đông, đến trưa nghe thấy phía bên ngoài cổng chùa
có tiếng truyền vào, trong tâm tôi máy động: “Đến rồi, cuối cùng cũng đã đến!”
Lát sau, các khách tăng dẫn người có dáng vẻ là quan viên đi vào đại điện, lễ
Phật xong ở trong phòng khách mời tôi tiếp đón.
Vị quan viên vừa thấy tôi liền nhìn kỹ trên dưới, rồi không
ngừng gật đầu: “Quả đúng như thế, quả đúng như thế!”
Hai tay tôi hợp lại trước ngực: “Xin hỏi đại nhân từ đâu
đến? Đến có việc gì?”
Người đó bỗng như giật mình tỉnh giấc, trả lời: “Ta đến từ
Trường An, vì con gái mà đến quý tự tìm người.” Tôi nói: “Tìm người ư? Trường
An cách Vĩnh Hoa tự cả trăm dặm, làm sao có người cô ấy cần tìm được?” Các
khách tăng đều cảm thấy kỳ lạ.
“Là như vầy…” Người đó giải thích: “Ta có một cô con gái, nó
giống như viên minh châu trong tay vợ chồng ta, chằng mấy chốc đã đến tuổi kết
hôn, có rất nhiều người nó cũng thấy vừa mắt. Một hôm nó mơ thấy chồng mình là
người nơi cửa Phật, hơn nữa kiếp trước từng có ước hẹn; cụ thể hiện giờ ở chùa
nào, dáng vẻ ra làm sao, còn có tín vật làm chứng, nói rõ ràng mười mươi. Ta
cũng là người tin Phật, mặc dù bán tín bán nghi, ta vẫn muốn đến trước để hỏi
dò và nghe ngóng xem sao, không ngờ quả thật rất đúng với lời con gái nói,
không sai chút nào.” Các sư đệ bên cạnh nghe không lọt nữa, tức giận nói: “Vớ
vẩn, phương trượng chúng tôi là cao tăng đắc đạo, sao lại có thể giống lời ông
nói được chứ?”
Tôi đưa tay lên ra hiệu bảo họ đừng nói nữa, rồi đi vào nhà
kho mở hòm gỗ của phương trượng tiền nhiệm để lại, lấy ra gói đồ để lâu đã bị
bụi phủ kín, cảm xúc dâng trào. Sau đó trở lại phòng khách, đặt gói đồ lên bàn
rồi nói với vị quan viên: “Đây chính là tín vật mà con gái ngài nói, đó là di
vật của tổ sư.” Lúc này các tăng nhân trong chùa tụ lại ngày càng đông, có
người chen vào trong phòng, đứng không được liền chen lên bên cửa sổ, chen nhau
mà thở, hiếu kỳ chăm chú vào mọi việc xảy ra ở đây. Vị quan viên nói: “Vậy thì
ngài hãy mở gói đồ đó ra xem xem.” Mọi người lần lượt hướng ánh mắt về phía tôi.
“Được rồi.” Tôi nhẹ nhàng mở gói đồ ra, quả nhiên là một bó
vải lụa màu trắng, mọi người đều ngạc nhiên. Bỗng nhiên dải lụa đó phát ra ánh
sáng nhạt, các tăng nhân cùng tụng niệm Phật hiệu, phủ phục xuống quỳ lạy. Lúc
lâu sau, mọi người mới giật mình tỉnh lại, vị quan viên đó nói với tôi: “Nếu
tất cả đều là sự thật, thì xin cao tăng thu xếp rồi cùng tôi lên đường vào phủ
chọn ngày để cùng tiểu nữ hoàn thành hôn sự, con gái tôi kết hợp với ngài đúng
là ‘trai tài gái sắc.’”
Cả đại điện bỗng chốc tĩnh lặng, mọi người điều tỏ ra vô
cùng lo lắng. Tôi suy nghĩ một lúc rồi chỉnh lại tăng y, ngồi ngay ngắn trên
chiếc bồ đoàn, tay lần chuỗi Phật châu niệm một đoạn dài Phật hiệu, nước mắt
lăn xuống với dáng vẻ đau thương: “Là nợ nghiệp kiếp trước, làm ta hai đời
không thể giải thoát được, đành đoạn dứt từ đây, đợi đến khi đắc lại chính Pháp
vậy!” Nói xong tự mình làm tọa hóa mà rời đi (tọa thiền cho đến khi viên tịch).
Đây chính là quan hệ nhân duyên giữa tôi và vợ, trải qua
luân hồi hàng nghìn năm, trong đời này chúng tôi đều sinh ra trong gia đình
nghèo khó, nơi trần thế mênh mông này nối tiếp tiền duyên, mặc dù xa cách nghìn
dặm nhưng cuối cùng chúng tôi cũng đến với nhau, hơn nữa lại là duyên lành quy
y Phật Pháp, buông bỏ tình, tiếp tục tu hành trong một pháp môn không cần xuất
gia mà vẫn có thể tu thành…
Vậy mới biết, mọi sự trên đời đều là hai chữ nhân duyên…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét